Thắc mắc thường gặp về mang thai và sinh nở

4.7/5 (123 đánh giá)

Quá sợ các cơn đau chuyển dạ, nhiều sản phụ muốn thoát khỏi nỗi ám ảnh này bằng biện pháp gây tê ngoài màng cứng, nhưng họ lại lo ảnh hưởng xấu về sau. Tuy nhiên, các bác sĩ cho biết phương pháp này an toàn cho cả mẹ và bé. Bác sĩ chuyên khoa sản Jean Claude Tissot, bệnh viện Việt Pháp (Hà Nội) giải đáp một số thắc mắc của các thai phụ về quá trình mang bầu và sinh nở.

Thắc mắc thường gặp về mang thai và sinh nở

Sách báo vẫn khuyên phụ nữ mang thai đi khám tối thiểu 3 lần. Vậy tốt nhất nên khám mấy lần, vào thời điểm nào?

Khoảng 7-8 lần. Nên khám thai lần đầu tiên khoảng 3 tuần đầu sau khi chậm kinh. Bác sĩ sẽ siêu âm để khẳng định thai đang phát triển và thử máu. Thời điểm thích hợp để khám lần thứ 2 là giữa tuần 11-12, ngoài kiểm tra thông thường còn siêu âm đo thai để định ngày thụ thai chính xác, đo chiều dày vùng gáy của thai nhi để loại trừ bệnh down. Các buổi khám tiếp theo là lúc thai được 16 tuần và 21-24 tuần tuổi.

Trong lần khám thứ 5 lúc 26 tuần, thai phụ cần tiêm phòng và lần sau đó (31-32 tuần) phải siêu âm lần cuối và tiêm uốn ván mũi 2. Buổi khám lúc 36 tuần rất quan trọng; ngoài kiểm tra thông thường, người mẹ còn phải xét nghiệm dịch âm đạo tìm khuẩn strepto B (để kịp thời xử lý, tạo thuận lợi cho ca sinh) và bác sĩ sẽ đưa ra tiên lượng về phương pháp sinh. Thai phụ cũng nên khám với bác sĩ gây mê để tìm ra phương án tốt nhất, phòng trường hợp phải mổ đẻ. Sau thời điểm này, người mẹ nên đi kiểm tra thai thường xuyên, nếu mọi việc vẫn ổn thì không nhất thiết phải siêu âm.

Những trường hợp nào cần mổ đẻ?

Bác sĩ sẽ quyết định mổ đẻ theo kế hoạch cho những trường hợp sau: quá ngày dự kiến sinh; sinh khó; ngôi thai mông hoặc ngôi ngang; thai to, khung chậu hẹp; rau tiền đạo. Những sản phụ từng phẫu thuật ở cổ tử cung, cắt u xơ tử cung hoặc từng mổ đẻ, người có bệnh tim mạch hay tiểu đường nặng cũng thường được lên kế hoạch mổ.

Trong ca sinh thường, bác sĩ cũng sẽ quyết định mổ cấp cứu nếu gặp các tai biến như tim thai suy nhiều, cổ tử cung không mở, nước ối đục và mẹ sốt, ra máu nhiều do rau bám thấp...

Biện pháp giảm đau gây tê ngoài mang cứng có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của sản phụ và hài nhi không?

Gây tê ngoài màng cứng là một kỹ thuật mới, đã được áp dụng khá phổ biến, trong đó bác sĩ tiêm thuốc gây tê trực tiếp vào chất dịch bao quanh cột sống. Mũi tiêm dừng lại cách màng cứng bọc tủy sống khoảng 15 mm chứ không phải đâm vào tủy như nhiều người sợ. Các nghiên cứu và thực tế cho thấy gây tê ngoài màng cứng giúp sản phụ giảm hẳn hoặc không còn đau, trong khi tử cung co thắt tốt hơn, cổ tử cung mở nhanh nên em bé ra dễ dàng.

Tuy nhiên, khi rút kim ra, một lượng dịch nhỏ cũng bị lấy ra, nếu lượng dịch này nhiều thì sản phụ có thể bị đau đầu trong 1-2 ngày đầu sau sinh. Chỉ cần nằm nghỉ, hiện tượng này sẽ hết.

Những người bị tiểu đường trong lần mang thai đầu tiên thì có bị như vậy trong lần sau không? Làm sao để vẫn ăn kiêng để duy trì mức đường máu tốt mà thai nhi vẫn đủ dinh dưỡng?

Có 2 tình huống xảy ra. Nếu mẹ vốn bị tiểu đường từ trước khi mang thai, cần được bác sĩ nội tiết theo dõi trong suốt quá trình thai nghén và cả sau sinh. Còn nếu người mẹ chỉ bị tiểu đường thai kỳ thì đường huyết sẽ trở lại bình thường sau khi sinh con. Một phụ nữ bị tiểu đường trong lần mang thai trước không có nghĩa là chị ấy cũng bị như vậy trong lần sau, mặc dù nguy cơ rõ ràng là cao hơn người bình thường. Để giảm nguy cơ này, nên duy trì một chế độ ăn uống và vận động hợp lý ngay cả khi đã trở về mức đường huyết lý tưởng.

Người bị tiểu đường thai kỳ cần ăn uống theo hướng dẫn của bác sĩ để không làm đường huyết tăng cao, nhưng vẫn phải tính toán để cung cấp đủ năng lượng cho bào thai. Điều này không khó như mọi người vẫn tưởng, vì em bé không cần mẹ nó ăn khẩu phần gấp đôi bình thường. Vấn đề là phải ăn thật đa dạng để có đủ các chất dinh dưỡng cần thiết.

Nhiều phụ nữ bị thai lưu rất sớm ngay trong 3 tháng đầu, liên tiếp nhiều lần. Tại sao có hiện tượng này?

Đến nay, khoa học chưa thể giải thích được hiện tượng đó. Có thể từ khi hình thành, phôi thai đã có bất thường, không thể phát triển hoàn thiện nên bị đào thải theo cơ chế tự nhiên. Tuy nhiên, nguyên nhân là gì thì chưa xác định được. Nếu nếu chỉ lưu một lần thì phần lớn chỉ là tai nạn. Nhưng nếu bị đến lần thứ 2 thì cần làm xét nghiệm nhiễm sắc thể cho cả 2 vợ chồng và tìm một số bệnh nào đó vì đây có thể là nguyên nhân.

Thời điểm thích hợp nhất để đến bệnh viện sinh con là khi nào?

Khi xuất hiện các cơn co tử cung gây đau 10 phút một lần, mỗi cơn kéo dài khoảng 15 đến 20 giây, nếu là con đầu lòng. Nếu sinh con rạ, nên đi bệnh viện ngay khi có cơn co.

Cần làm gì trong các lần khám thai?

Trong lần khám đầu tiên (3 tuần sau khi chậm kinh), thai phụ được siêu âm lần đầu để khẳng định thai đang phát triển và xét nghiệm máu bắt buộc. Lần thứ hai sau đó khoảng 1 tháng, bác sĩ cũng siêu âm để xác định chính xác ngày thụ thai, khẳng định thai phát triển, đo chiều dày vùng gáy để tầm soát bệnh Down. Các lần khám giữa thai kỳ thường chỉ theo dõi thông thường, tiêm phòng uốn ván.

Ở lần khám lúc 36 tuần, ngoài việc theo dõi, nên xét nghiệm dịch âm đạo tìm khuẩn strepto B, đưa ra tiên lượng về phương pháp sinh. Từ tuần thứ 38, có thể phải làm thêm các xét nghiệm như siêu âm theo dõi nước ối, ngôi thai, tình trạng bám của rau thai...

Những biến chứng gì có thể xảy ra?

Đó là ra máu âm đạo, bong nhau, rau tiền đạo, nhiễm trùng cổ tử cung, nhiễm trùng đường tiết niệu, có cơn co tử cung và dọa đẻ non, cao huyết áp kèm theo phù nề và có albumin niệu (nguy cơ máu tụ sau nhau và sản giật, thai chết lưu). Tăng cân quá nhiều và tiểu đường thai kỳ cũng là biểu hiện nguy hiểm. Nếu có các biến chứng trên, sản phụ phải làm thêm nhiều xét nghiệm và đôi khi phải nhập viện theo dõi, hoặc khám thêm ở một chuyên khoa khác như: tim mạch, nội tiết.

Dấu hiệu chuyển dạ là gì?

Có hai khả năng: Xuất hiện các cơn co tử cung gây đau và vỡ ối (có thể không đau bụng). Lúc này, cần đến bệnh viện ngay. Các nhân viên y tế sẽ theo dõi độ mở của cổ tử cung, mức lọt của đầu thai nhi. Quá trình này có thể kéo dài từ 1 đến 12 tiếng, sau đó là giai đoạn rặn đẻ khi cổ tử cung đã xóa hoàn toàn và đầu bé xuống thấp dưới âm đạo, diễn ra trong khoảng 5-20 phút.

Khi nào cần mổ cấp cứu?

Cần mổ đẻ khi tim thai suy nhiều, cổ tử cung không mở, hoặc giãn cổ tử cung hoàn toàn mà đầu không lọt. Các trường hợp nước ối đục nhiều, mẹ sốt, ra máu nhiều do rau bám thấp cũng cần phẫu thuật lấy thai.

Những trường hợp nào cần mổ theo kế hoạch?

Bác sĩ sẽ sắp lịch mổ nếu đã quá ngày dự kiến sinh, không kích đẻ được, hoặc thai ở ngôi mông, ngôi ngang. Các trường hợp sau cũng cần mổ theo kế hoạch định trước: Thai to/khung chậu hẹp; trước khi mang thai sản phụ đã có các phẫu thuật ở cổ tử cung, khoét chóp cổ tử cung; rau tiền đạo; tiểu đường nặng; có bệnh tim mạch hoặc chuyển hóa cần hội chẩn; tiền sử mổ đẻ hoặc mổ cắt u xơ tử cung.

ĐÁNH GIÁ
4.7 / 5

Bài hay? Đánh giá ngay!
Chọn số sao
           
Gửi thành công! Cảm ơn bạn đã đánh giá!
Tư vấn 1:1 qua chat và video Zalo
Chat ngay!
- Chuyên gia hàng đầu về THAI GIÁO và GIÁO DỤC SỚM (không phải bác sĩ)
- Trực tiếp nghiên cứu và ứng dụng thai giáo, giáo dục sớm cho con trai nên các bài học có tính ứng dụng RẤT CAO, không lý thuyết hàn lâm
- CEO App Mamibabi
- Tác giả TOP sách thai giáo bán chạy tại TIKI: Rủ chồng thai giáo
- Chuyên gia Phát triển Ứng dụng cho Mẹ và bé được sử dụng bởi hàng triệu người
CÂU HỎI CÙNG QUAN TÂM
Nhận ngay 5,000+ hoạt động Thai giáo, Giáo dục sớm, Tập nói sớm, Ăn dặm VIP
Thai giáo
Giáo dục sớm
EASY, Luyện ngủ
Tập nói sớm
Ăn dặm VIP
Tư vấn 1:1
Sức khỏe
BÀI MỚI ĐĂNG